“Vũ trụ nhiệm màu chính đạo bao trùm trời đất
Thiên nhiên kỳ vỹ ơn lành tỏa khắp thế gian”.
Nếu vào thăm nhà giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng, khách mời sẽ dễ
dàng nhận thấy câu đối này được khắc trang trọng trên tảng đá ngay trước cổng. Ở
tuổi 72, sau những cống hiến lớn lao cho khoa học thế giới và nền giáo dục Việt
Nam, giáo sư đã khắc lên tâm khảm thế hệ cộng đồng triết lý nhân sinh về lòng
biết ơn cuộc đời, biết ơn thiên nhiên, tạo hóa và đất trời… Bên cạnh đó, vẫn còn
đau đáu một giấc mơ Việt Nam mà giáo sư luôn trăn trở trong mỗi câu chuyện kể với
độc giả.
Ở tuổi 72, nếu được nói về mình, giáo sư sẽ nói gì?
Tôi là người Việt Nam bình thường như
bao người khác. Những điều tôi làm trong cuộc sống này cũng rất nhỏ nhoi, tôi đi học, đi du học, rồi nghiên cứu khoa học. Duy chỉ có một điều khác biệt
là trong trái tim tôi luôn trăn trở và
mang theo một giấc mơ. Đó là giấc mơ về việc tôi phải làm gì để đóng góp cho Việt
Nam phát triển sánh vai với các nước bạn bè năm Châu, thoát ra khỏi tụt hậu chiến
tranh, nghèo đói… Chính vì vậy, dù ở trong bất kể hoàn cảnh nào thì trái tim
tôi vẫn luôn trăn trở giấc mơ ấy dù khi là một du học sinh, trở thành nhà khoa
học có tiếng tăm, lúc sống sung túc bên trời Âu hay lúc gian nan khó nhọc đi thỉnh giảng nơi rừng rú của Phi Châu…
Xin giáo sư chia sẻ, hành trình bước vào ngưỡng cửa nghiên cứu
khoa học của giáo sư như thế nào?
Tôi sinh ra ở Điện Bàn (Quảng Nam), má tôi mất sớm nên ba tôi phải chấp nhận cảnh “gà trống
nuôi con” để nuôi anh em chúng tôi ăn học. Phải đến năm 13 tuổi, tôi mới được đi học và nhảy cóc lên lớp, đậu tú tài cao và được chọn
đi du học. Tôi rất thích văn thơ và muốn theo con đường này nhưng cha hướng tôi
theo lĩnh vực khoa học. Để thỏa mãn tâm hồn lãng mạn, tôi chọn học về ngành
hàng không không gian tại trường Liège, đó cũng là ngành khó nhất vì phải tính
toán rất nhiều.
Nhờ kết quả học tập xuất sắc mà sau khi
ra trường tôi được giữ lại với vai trò là nghiên cứu sinh. Khi đó, mục đích của
tôi là đợi khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, tôi sẽ quay về để phục vụ đất
nước. Tuy nhiên, tình hình đất nước vẫn chưa có gì thay đổi nên tôi lại tiếp tục
ở lại Bỉ và được một giáo sư giới thiệu và làm việc tại Trung tâm hàng không
không gian của châu Âu. Nhưng tôi bị từ chối vì đã từng tham gia đi đầu cuộc biểu
tình yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, trong khi trung tâm hàng
không Châu Âu có một số lớn vốn của Mỹ bỏ ra… Vậy là, giấc mơ Việt Nam trở
thành thách thức đối với cuộc sống của tôi…
Sau đó, tôi nhanh chóng làm việc cho một
giáo sư chuyên về ngành xây dựng, thiết kế cầu đường. Vậy là, thay vì bay trên
không tôi trở về đáp xuống mặt đất; thay vì cho máy bay, tôi chuyển qua tính
toán cầu đường, kè, nhà cao tầng… Những đam mê về hàng không tôi vẫn tiếp tục
nghiên cứu và nhờ sự kết nối giữa 2 ngành khoa học đã giúp tôi khám phá ra những
điều mới lạ.
Theo giáo sư, các nhà khoa học hiện nay có điểm khác gì so với thế
hệ nhà khoa học thời của giáo sư?
Trước hết, người làm nghiên cứu khoa học
phải có lòng đam mê, tất nhiên không phải là đam mê tiền. Họ cũng cần phải có 2
điều kiện: kiến thức và trí tưởng tượng. Ở Việt Nam, đội ngũ nhà khoa học trình
độ chưa cao và còn tụt hậu nhiều so với thế giới. Ở nước ngoài, những người làm
khoa học sau khi bảo vệ tiến sĩ 20 năm họ vẫn liên tục nghiên cứu. Nhưng ở Việt
Nam, sau khi kiếm được tấm bằng, các tiến sĩ, thạc sĩ chỉ tập trung vào công việc
giảng dạy, ít cập nhật kiến thức và đầu tư cho việc tìm tòi, nghiên cứu sáng tạo.
Thêm vào đó, muốn làm khoa học thì phải
có con người tự do, phải bỏ đi những cái cũ, thay bằng cái mới, nhà khoa học phải
tôn trọng sự thật để giải thích thế giới vũ trụ, các sự kiện khoa học… không thể
nói theo ý chí của mình. Những yếu tố này đội ngũ một phần không nhỏ các nhà
khoa học Việt Nam chưa có được.
Vậy có hướng đi nào cho các nhà đam mê khoa học trẻ hay không,
thưa giáo sư?
Hiện nay, có nhiều chương trình đào tạo
cho du học sinh, mặc dù hiệu quả chưa cao nhưng ít nhiều cũng tạo điều kiện cho
các em có thể có cơ hội tiếp xúc với những môi trường nghiên cứu khoa học tiên
tiến của thế giới. Tuy nhiên, có những nhà khoa học có trình độ, tâm huyết thực
sự và muốn cống hiến cho đất nước thì lại không tìm thấy một môi trường phù hợp
ở trong nước để dụng võ. Vì vậy, cần có những tổ chức đứng ra tạo điều kiện để đội
ngũ này có môi trường tốt, tiếp tục nghiên cứu. Lấy ví dụ, tại trường Đại học
Tôn Đức Thắng, tôi đang là cố vấn cao cấp khoa học, chỉ có chừng 8 nhà khoa học
trẻ, nhưng họ đã công bố được tới 20 bài báo khoa học với thế giới. Con số này đáng kể so với số lượng công trình nghiên cứu của một Viện nghiên cứu nuôi
hàng trăm nhà tiến sĩ, giáo sư… Điều này khẳng định một thực tế rằng, nếu có
môi trường tốt thì việc phát triển, đào tạo sẽ không mất quá nhiều thời gian và
công sức.
Theo giáo sư, có những tiêu chuẩn hay thước đo nào để đánh giá một
nhà làm khoa học chân chính?
Chỉ có những công trình khoa học mới có
thể đánh giá tầm cỡ quốc tế hay không, phải đánh giá tầm cỡ quốc tế vì một công
trình khoa học bây giờ là cả thế giới họ đọc.
Qua cuộc sống có cống hiến và có sống vì
nền khoa học có hành xử với khoa học khách quan vô tư, liêm chính hay không, có
mua mấy bài viết hay góp nhặt ý tưởng của người khác hay không… Từ đó khoa học
có đạo đức là tôn trọng sự thật, xuất phát từ môi trường tự do, tôn trọng sự thật
là cơ sở để phát triển khoa học… Người
khoa học chân chính phải tranh đấu và đứng về phía sự thật, một trong những tấm
gương nổi tiếng đó chính là ngài Galileo, nhà khoa học người Ý đã bị ngược đãi vì cương quyết bảo vệ
chân lý, được xem như ông tổ của nền cơ học hiện đại.
Theo giáo sư, đội ngũ của nhà khoa học sẽ có ảnh hưởng đến sự phát
triển một quốc gia?
Như chúng ta biết, sự phát triển của
nhân loại đều bắt nguồn từ phát triển khoa học chân chính. Nhưng một nền khoa học
chân chính chỉ xuất phát từ một nền giáo dục thực thụ. Nền khoa học Việt Nam từng
có sự phát triển trong vòng 20 năm sau đổi mới nhưng đến thời điểm này lại bị
chựng lại, các phát minh của chúng ta mới chỉ dừng lại ở dạng thô chứ chưa có những
công trình khoa học được đầu tư trí tuệ thực thụ. Vì vậy, Việt Nam cần phải đặt
nặng đầu tư cho giáo dục đào tạo, chú trọng đến phát triển khoa học, rồi từ sự
phát triển ấy, khoa học sẽ can dự vào việc quản lý, phát triển nền kinh tế bền
vững và các lĩnh vực khác…
Vậy nền văn hóa của một quốc gia có ảnh hưởng như thế nào đến sự
phát triển khoa học của quốc gia đó, thưa giáo sư?
Văn hóa và khoa học có mối liên hệ rất chặt
chẽ. Nếu nền văn hóa cao đẹp thì khoa học phát triển rất mạnh mẽ. Như chúng ta
thấy, Việt Nam có văn hóa truyền thống rất cao đẹp nhưng chúng ta chưa biết vận
dụng vào khoa học. Tôi rất thích một câu
thành ngữ: “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Tức là, chúng ta chỉ cần tinh thông
một nghề, nếu nghề đó chúng ta làm tốt, giỏi hơn người thì chúng ta có thể sống
vinh hiển. Như vậy, trong văn hóa truyền thống, ông cha ta luôn khuyến khích giá
trị sống thực, không khuyến khích thi đua ảo, sống gian dối để chạy theo bằng cấp,
khoa bảng… Trong khoa học cũng vậy, khoa
học chân chính luôn gắn liền với giá trị thật.
Như vậy giáo sư đã mang trong mình những nét văn hóa nào của Việt
Nam để tạo nên những thành tích cho mình trong quá trình học tập, nghiên cứu và
cống hiến cho khoa học?
Thế hệ chúng tôi được giáo dục rất
nghiêm túc với một nền giáo dục tôn trọng sự thực học. Vì vậy, chính những kiến
thức nền tảng ấy đã giúp chúng tôi tự tin để bước ra thế giới mà không hề cảm
thấy tự ti, thua kém bạn bè quốc tế. Tôi còn nhớ, ngày chúng tôi sang Bỉ du học,
ông giám đốc Hợp tác quốc tế của Bỉ cho rằng, chúng tôi khó có thể theo học ở
những ngôi trường uy tín của Bỉ nên đã khuyên chúng tôi hãy chọn một trường đại
học nhỏ để thi vào. Tuy nhiên, 3 du học sinh đến từ Việt Nam đã quyết định gặp
ông giám đốc ấy và nói lên nguyện vọng của mình rằng, chúng tôi sẽ quyết tâm
thi đậu vào trường đại học thuộc thành phố Liège, nếu không chúng tôi sẽ bắt
máy bay về Việt Nam chứ nhất quyết không theo học trường nhỏ. Ông giám đốc rất
bàng hoàng bởi sự tự tin đầy thách thức của chúng tôi nhưng ông cũng khẳng định,
Bỉ là xứ tự do, nếu chúng tôi thi rớt thì ráng chịu… Cuối cùng, 3 du học sinh đến
từ Việt Nam đã lọt vào danh sách 5 người duy nhất thi đậu vào trường ở Liège. Vì
vậy, tôi luôn nhận thấy “vàng thật không sợ lửa” là vậy!
Giáo sư nhận được nhiều huân chương danh dự của chính phủ Bỉ, bằng
khen chính phủ Việt Nam và sự ghi nhận của cộng đồng, vậy đó có phải là điều mang
lại hạnh phúc thực sự cho giáo sư?
Tấm huân chương thứ thiệt mang lại hạnh
phúc thực sự cho tôi chính là việc tôi đã đào tạo cho Việt Nam rất nhiều thế hệ
nhà khoa học trẻ, các tiến sĩ, giáo sư… hoạt động khoa học thực sự và đang tiếp
tục tiếp nối giấc mơ Việt Nam mà tôi đã mang theo suốt cả cuộc đời của mình.
Ngoài nghiên cứu khoa học, giáo sư còn viết báo, sáng tác nhạc… Vậy
có mối liên hệ gì giữa nghệ thuật và khoa học?
Trong nghiên cứu khoa học hay sáng tác
thơ, văn chương thì chúng ta đều cần đến trí tưởng tượng. Tôi cảm nhận được sự
sảng khoái khi làm khoa học, và sự thích thú khi làm một bài thơ. Khi tôi làm một
bài thơ nói hết được nỗi lòng của mình, nếu bài thơ ấy đủ xúc động người đọc
thì đó là niềm vui của tôi... Chỉ có điều khác là niềm hạnh phúc trong tình yêu
đôi khi có sự tiếc nuối, nhưng trong khoa học thì không…
Sau những nghiên cứu và cống hiến cho khoa học, đến thời điểm này,
giáo sư có ước vọng gì không?
Tôi có giấc mơ Việt Nam, tôi đã nói ra
và thực hiện giấc mơ của mình bằng hành động. Và cũng sắp ra mắt cuốn hồi ký
800 trang để chia sẻ với cộng đồng về ước mơ của tôi. Hiện nay, tôi đã truyền
được ngọn lửa của giấc mơ ấy cho những học trò của mình, các em đã biết kết nối
với nhau để tiếp nối giấc mơ của tôi. Ở tuổi 72 tôi vẫn canh cánh trong lòng bởi
chưa thấy được sự đổi mới thực sự của nền giáo dục. Và tôi hy vọng nếu Nhà nước
có thể thẩm định khách quan những gì tôi đã làm, nếu thấy hữu ích với đất nước
thì hãy nhân rộng và hỗ trợ nhóm học trò của tôi để xây dựng được những trung
tâm đào tạo nghiêm túc và có giá trị thực thay vì phung phí tiền bạc và công sức
vào những dự án không hiệu quả.
Nhận xét
Đăng nhận xét